Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Hiệu quả của tinh chất nhau thai heo bổ sung cho liệu pháp điều trị Hocmon ở phụ nữ tiền mãn kinh đối với chứng bệnh đau khớp gối



K. Koike, Y. Yamamoto, N. Suzuki*, R. Yamazaki, C. Yosbikawa, K. Takuma, K. Sugiura and M. Inoue
Khoa phụ sản và Khoa bổ sung, thay thế thuốc, Đại học khoa học quốc tế Kanazawa, Ishikawa; Phòng thí nghiệm dược lý thuốc, trường Đại học khoa học Dược phẩm; Đại học Osaka, Sugiura Clinic, Hikarigaoka, Kanazawa, Ishikawa, Nhật Bản.
Từ khóa: Dịch chiết nhau thai heo, đau đầu gối, HRT, liệu pháp bổ sung, bổ sung và thay thế thuốc
______________________________________________________________________________
TÓM TẮT
Mục tiêu:Viêm xương khớp, đau khớp gia tăng theo độ tuổi, đặc biệt hay gặp ở phụ nữ tuổi trung niên. Mặc dù liệu pháp thay thế hóc môn (Hormon replacement therapy – HRT) cải thiện triệu chứng đau khớp nhưng đối với những phụ nữ chưa thích ứng vớiHRT cần phải có liệu pháp bổ sung hiệu quả. Mục tiêu của thử nghiệm này là đánh giá tác dụng của dịch chiết nhau thai heo (porcine placental extract-PPE) dạng viên uống có hiệu quả như thế nào khi sử dụng như một liệu pháp bổ sung HRT.
Phương pháp:Phụ nữ tiền mãn kinh 48 tuổi bị đau xương khớp đã trải qua liệu pháp HRT tham gia vào thử nghiệm mở, ngẫu nhiên, có kiểm soát. Các đối tượng nghiên cứu được sắp xếp ngẫu nhiên vào nhóm 1 (n=24), nhóm 2 (n=24). Đối tượng nhóm 1 điều trị bằng canxi (260 mg/ngày) trong 3 tháng như một liệu pháp bổ sung song song với HRT. Nhóm 2 điều trị bằng PPE (9 viên/ngày) như một liệu pháp bổ sung song song với HRT.Sự thay đổi mức độ đau xương khớp được đánh giá bằng Visual Analog Scale (VAS).
Kết quả: Điều trịvới PPE có tác dụng giảm đau tốt thông qua chỉ số VASở thời điểm 4 tuần (p<0.05), 8 tuần (p<0.01) và 12 tuần (p<0.01), kết quả này được so sánh với nhóm chứng. Và tác dụng tiếp diễn sau 4 tuần dùng thuốcở nhóm chứng được so sánh với tác dụng sau khi ngừng sử dụng PPE ở nhóm thử.Điều trị với PPE không xuất hiện bất kỳ tác dụng bất lợi nào về công thức máu, khả năng chuyển hóa, đặc biệt các vấn để liên quan đến tim mạch.
Kết luận:Uống bổ sung PPE là một lựa chọn khả thi để hỗ trợ điều trị bằng phương pháp HRT khi đau khớp gối kéo dài.

GIỚI THIỆU
Tỷ lệ mắc bệnh viêm xương khớp (Osteoarthritis-OA) gia tăng theo tuổi tác và thường gặp ở nữ giới hơn nam giới. Khoảng 25%số ngườiở độ tuổi 55 và trên 55 bịđau xương khớp triền miên nhiều ngày trong tháng.Có gần một nửa chụp X quang ở đầu gối phát hiện bị OA nhưng hơn một nửa ở giai đoạn đầu của OA, kết quả này khôngđược hiển thị trên X quang.OA là nguyên nhân chính gây vận động khó khăn ở người cao tuổi. Yếu tố nguy cơ của OA bao gồm: tuổi tác, giới tính (nữ mắc nhiều hơn), di truyền, béo phì và chấn thương khớp.
Hiện nay, phương pháp chữa trị OA còn chưa triệt để, đa phần sử dụng các thuốc giảm đau làm cắt cơn đau của bệnh nhân. Các phương pháp điều trị OA thông dụng là sử dụng các thuốc giảm đau như thuốc nhóm NSAIDs, các bài tập thể dục, phương pháp chườm nóng lạnh, giảm cân, mátxa, tiêm corticoid steroid và phẫu thuật khớp.Trong các phương pháp trên, NSAIDs là thuốcđược sử dụng rộng rãi cho OA, tuy nhiên có thể dẫn đến nhiều tác dụng bất lợi khi sử dụng NSAIDs kéo dài.Mặt khác, các loại thuốcuống bổ sung (complementary or alternative medicine-CAM) để hỗ trợ điều trị OA thường được sử dụng nhằm giảm đau và phần lớn những người sử dụng CAM đều tin rằng bằng cách này sẽ không gây tác dụng phụ. Thực phẩm chức năng như glucosamine, chondroitin được khuyến khích sử dụng bởi các phương tiện truyền thông và những người nghiên cứu như là một lựa chọn an toàn và hiệu quả để hạn chế OA tiến triển. Tuy nhiên mặc dù theo nghiên cứu phân tích meta đánh giá hiệu quả các loại thuốc uống bổ sung này đối với hỗ trợ điều trị OA thì thử nghiệm đa chiều lại đưa ra kết quả rằng glucosamine và chondroitin không giúp cải thiện cơn đau cho bệnh nhân viêm khớp gối.
Các nhà thuốc điều trị bằng phương pháp cổ truyềnở châu Á đã và đang sử dụng tinh chất nhau thai. Ở Nhật Bản, dịch chiết nhau thai người thủy phân có tên thương mại là Laennec (Japan Bio Products Ltd., Tokyo) được công nhận với hiệu quả điều trị các bệnh viêm gan, xơ gan vì có tác dụng tăng sinh tế bào gan.Ngoài ra, dịch chiết nhau thai người bằng cách tiêm dưới da hoặc tiêm bắp còn đem lại nhiều hiệu quả trên các bệnh khác như: rối loạn mãn kinh, da liễu, không lành vết thương. Có báo cáo thử nghiệm trên OA ghi rằng, dịch chiết nhau thai người tiêm trong khớp gối có hiệu quả tốt trên bệnh nhân OA mạn tính.
Những năm gần đây, chiết xuất nhau thai heo (PPE) được điều chế thành thực phẩm chức năng dưới dạng viên uống mong đạt hiệu quả gần với chiết xuất nhau thai người, tuy nhiên bằng chứng nghiên cứu về công dụng này còn chưa đầy đủ. Vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu xem liệu PPE có tác động trên bệnh nhân đau khớp như một giải pháp bổ sung cho liệu pháp HRT không, liệu pháp được xem là hiệu quả an toàn đối với bệnh đau khớp gối.

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Thiết kế nghiên cứu
Phụ nữ tiền mãn kinh, 48 tuổi, đau khớp gối tham gia thử nghiệm lâm sàng. Các phụ nữ này đã từng sử dụng liệu pháp estrogen đơn lẻ (estrogen-alone therapy-ET) hoặc đã từng điều trị HRT liên tục trong ít nhất 6 tháng, đăng ký vào thử nghiệm mở, ngẫu nhiên, có kiểm soát. Các đối tượng được sắp xếp ngẫu nhiên trong nhóm 1 (n=24), nhóm 2 (n=24). Đối tượng cả 2 nhóm được tiếp tục điều trị bằng liệu pháp ET hoặc HRT trong 3 tháng tiếp theo, sau đó đối tượng ở nhóm 1 được điều trị bổ sung canxi (260 mg/ngày) cùng với liệu pháp HRT hoặc ET trong 3 tháng đó. Thử nghiệm này được cấp phép bởi hội đồng đánh giá nhân đạo thuộc Hiệp hội thuốc uống bổ sung Nhật Bản và được ký cam kết bởi các đối tượngtham thử nghiệm.

Đối tượng tham gia
Đặc điểm đối tượng tham gia thử nghiệm cả hai nhóm được ghi trong bảng 1.Sự khác nhau về đặc điểm các đối tượng tham gia trong 2 nhóm không có ý nghĩa. Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI) (±độ lệch chuẩn) của nhóm đối chứng là 21.7 ± 2.6 kg/m2 (phạm vi 17 – 25.8 kg/m2), nhóm PPE là 21.9 ± 2.6 kg/m2 (phạm vi 17.3 – 25.9 kg/m2). Thời gian đau khớp của nhóm chứng là 37.7 ± 24.9 tháng (pham vi 6 – 105 tháng), nhóm PPE là 34.5 ± 20.7 tháng (phạm vi 6 – 72 tháng).  Có 16 bệnh nhân nhóm chứng và 15 bệnh nhân nhóm PPE đều đau hai khớp gối khi đi bộ xuống cầu thang. Khoảng thời gian các đối tượng điều trị HRT/ET ở nhóm chứng là 66.2 ± 32.3 tháng (phạm vi 12 – 120 tháng), ở nhóm PPE là 69.6 ± 31.9 tháng(phạm vi 15 – 120 tháng). Có 6 bệnh nhân nhóm chứng và 4 bệnh nhân nhóm PPE trải qua ET vì phẫu thuật cắt bỏ từ cung và dùng estradiol tiếp. Những người còn lại trải qua điều trị HRT bằng estradiolvà Medroxyprogesterone acetat (5 mg/ngày) liên tục trong 10 ngày. Đối tượng dùng estradiol có kèm hệ thống dính matrix transdermal (áp dụng 1 lần vào mỗi ngày) chứa 0.72 mg 17β-estradiol được thiết kế giải phóng 50 µg mỗi ngày. Phụ nữ tham gia có trình độ học vấn từ cấp 3 đến cao đẳng, không có bất kỳ vấn đề về khớp, ví dụ có vấn đề về hông, chân có thể liên quan tới khớp gối.
Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: viêm khớp dạng thấp, xơ vùng cơ, đã từng bị hay đang bị gút giả, ung thư hoặc bất kỳ bệnh nghiêm trọng nào, sử dụng corticosteroid và các liệu pháp điều trị khác, sử dụng sản phẩm bổ sung dinh dưỡng để giảmđau khớp.

Bảng 1: Thông tin các đối tượng ở nhóm chứng và nhóm uống 9 viên nang nhau thai heo mỗi ngày. Dữ liệu được biểu thị là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn

Nhóm đối chứng (n=22) Nhóm PPE (n=22)



Tuổi (năm) Tuổi thời kỳ mãn kinh (năm) 63.3 ± 5.8 49.8 ± 2.9 63.2 ± 6.4 50.0 ± 3.0
Chiều cao (cm) 155.8 ± 5.2 155.1 ± 5.9
Cân nặng (kg) 53.1 ± 6.6 53.0 ± 6.9
Chỉ số khối lượng cơ thể BMI (kg/m2) 21.7 ± 2.6 21.9 ± 2.6
Thời gian đau khớp gối (tháng) 37.7 ± 24.9 34.5 ± 20.7
Thời gian dung HRT/ET (tháng) 66.2 ± 32.3 69.6 ± 31.9
HRT: Liệu pháp thay thế hóc môn, ET: liệu pháp chỉ sử dụng estrogen

Nguyên liệu
Chúng tôi sử dụng dịch chiết nhau thai heo, tên thương phẩm là JBP Porcine 100 (Laennec P.O Porcine) do công ty Japan Bio Products Ltd., sản xuất với đặc điểm sau: nhau thai heo thu thập ở Nhật Bản được thủy phân bằng protease và tiệt khuẩn công nghệ cao, sau đó đông khô và được đóng vào vỏ nang. Một viên nang mềm chứa 350 mg dịch chiết nhau thai heo, hoàn toàn không có chất phụ gia.

Đo lường
Chúng tôi sử dụng Visual Analog Scale (VAS) đánh giá mức độ đau khớp gối, tình trạng đau được chia từ 0 mm (không đau) đến 40 mm (đau rất nặng).Đau khớp gối được thể hiện trên nhiều hoạt động khác như: ngồi ở ghế rồi đứng lên, đi bộ xuống cầu thang, đi bộ lên cầu thang và đi bộ đường dài. Ở phương pháp này, chúng tôi tập trung đánh giá mức độ đau khớp gối khi đi bộ xuống cầu thang và đượcđánh giá bằng VAS.Bệnh nhân bị đau hai bên đầu gối nghiêm trọng được chỉđịnh trong nghiên cứu đầu gối.Đau đầu gối đánh giá bằng VAS bắt đầu lúc 3 thángở giai đoạn quan sát (bắt đầu điều trị bằng PPE), trong suốt quá trình điều trị (ở tuần thứ 4, thứ 8, thứ 12) và 4 tuần sau khi điều trị cả 2 nhóm.
Để xácđịnh độ an toàn củađiều trị bằng PPE, chúng tôi điều tra công thức máu, quá trình trao đổi chất lúc ban đầu và sau 3 thángđiều trị bằng PPE ở nhóm 2. Một mẫu máu tĩnh mạch được lấy nhanh sau 12 h và hemoglobin, số lượng tiểu cầu, số lượng bạch cầu, AST, ALT, albumin, bilirubin, LDH, CPK, urê máu, creatinine, urat, calcium, glucose máu, cholesterol toàn phần, triglycerides và HDL, hs-CRP, lipoprotein (a) và hóc môn tuyến cận giáp được đo bởi phòng thí nghiệm ALP Company Kanazawa. Chỉ số BMI được tính bằng cân năng/ chiều cao2

Phân tích thống kê
Dữ liệu được thể hiện dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (mean ± SD). Chúng tôi sử dụng kiềm tra xếp hạng là Wilcoxon để đánh giá sự khác nhau về VAS trong suốt quá trình thử nghiệm của 2 nhóm và dùng kiềm tra MannWhitney U để đánh giá sự thay đổi khác nhau về VAS giữa 2 nhóm. Kết quả được xem là có ý nghĩa thống kê khi giá trị p nhỏ hơn 0.05.

KẾT QUẢ
Tác dụng của PPE đối với bệnh đau khớp gối
Có 4 phụ nữ (2 ở mỗi nhóm) xin rút khỏi thử nghiệm vì lý do cá nhân. Bởi vậy, có 44 phụ nữ tham gia phân tích lần cuối cùng (22 người nhóm đối chứng và 22 người nhóm PPE).Sự biến đổi các chỉ số VAS về độ đau khớp gối của 2 nhóm trong suốt quá trình thử nghiệm được thể hiệnởBiểu đồ 1.
Không có sự khác nhau cóý nghĩa về chỉ số VAS lúc ban đầu (29.9 ± 8.36) và 3 tháng trước khi bắt đầuđiều trị(30.2 ± 8.30) ở nhóm PPE và chỉ số lúc ban đầu(28.2 ± 7.95) và 3 tháng trước khi bắt đầu điều trị (27.6 ± 7.73) ở nhóm đối chứng tương ứng.
Không có sự khác nhau có ý nghĩa giữa 2 nhóm về mức độ đau khớp gối ở thời điểm ban đầu.
Mức độ giảm chỉ số VAS phản ánh độ đau khớp gối của nhóm điều trị bằng PPE là có ý nghĩa: ở tuần thứ 4 (19.9 ± 10.7, p<0.05), tuần thứ 8 (15.2 ± 10.3, p<0.01) và tuần thứ 12 (12.8 ± 10.8, p<0.01) khi so sánh với nhóm đối chứng (26.7 ± 8.36; 27.3 ± 7.93; 28.2 ± 8.21 tương ứng).Điều thú vịở chỗ, tác dụng này tiếp diễn tiếp 4 tuần sau khi ngừng điều trị:  nhóm PPE (12.3 ± 11.8, p<0.01) so với nhóm chứng (29.3 ± 7.5). Khi giai đoạn thử nghiệm kết thúc, chỉ số VAS giảm là 57.2 % và 4 tuần sau khi ngừng điều trị, chỉ số VAS giảm là 59.9 % so với thời điểm ban đầu ở nhóm PPE. Chỉ số BMI không ảnh hưởng đến kết quả điều trị vì không bệnh nhân nào bị béo phì.
bieu do
Biểu đồ 1: Sự thay đổi chỉ số Visual Analog Scale (VAS) phản ánh mức độ đau khớp đầu gối sau theo thời gian điều trị bằng dịch chiết nhau thai heo (PPE) hoặc canxi (đối chứng) để hỗ trợ điều trị HRT. Dữ liệu biểu thị dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (n=22). *,p<0.05; **,p

Công thức máu và khả năng chuyển hóa
Không có sự khác nhau có ý nghĩa giữa các giá trị ở thời điểm ban đầu và lúc kết thúc thử nghiệm ở nhóm PPE về: hemoglobin, số lượng tiểu cầu, số lượng bạch cầu, AST, ALT, albumin, bilirubin toàn phần, LDH, CPK, urê máu, creatinine, urat, calcium vàhóc môn tuyến cận giáp (bảng 2) cũng như nguy cơ xấu trên tim mạch như: glucose máu, cholesterol toàn phần, triglycerids, HDL, cholesterol, hs-CRP và lipoprotein (a) (bảng 3).
Bảng 2: Kết quả xét nghiệm sinh hóa trước và sau điều trị 12 tuần với dịch chiết nhau thai heo (PPE). Dữ liệu được thể hiện dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (n=22). Mọi kết quả này đều không có ý nghĩa thống kê

Thờiđiểm ban đầu (trướcđiều trị) Sau khi điều trị
Chỉ số khối lượng cơ thể BMI (kg/m2) 21.9 ± 2.6 21.9 ± 2.6
Hemoglobin (g/dl) 12.9 ± 1.0 13.0 ± 1.3
Số lượng bạch cầu cầu ( x 103/µl) 5.51 ± 1.0 5.71 ± 1.5
Tiểu cầu (x 104 µl) 23.8 ± 5.4 24.4 ± 5.0
AST (IU/l) 20.7 ± 7.9 19.3 ± 4.5
ALT (IU/l) 19.1 ± 21.0 15.8 ± 8.0
Albumin (g/dl) 4.37 ± 0.23 4.35 ± 0.18
Bilirubin toàn phần (mg/dl) 0.53 ± 0.21 0.60 ± 0.27
Lactate dehydrognease (IU/l) 171.4 ± 22.7 173.4 ± 21.1
Creatinin phosphokinase (IU/l) 93.0 ± 44.0 88.1 ± 33.7
Urê máu (mg/dl) 14.3 ± 3.1 14.4 ± 3.4
Creatinin (mg/dl) 0.61 ± 0.07 0.61 ± 0.08
Urat (mg/dl) 4.03 ± 1.11 4.17 ± 1.21
Calcium (mg/dl) 9.10 ± 0.55 9.14 ± 0.45
Hóc môn tuyến cận giáp (pg/ml) 37.2 ± 13.1 37.0 ± 13.6
Chúng tôi thực hiện một phân tích phụ về mức độ hs-CRP ở nhóm PPE: khi nồng độ hs-CRP của các đối tượng tăng 1.5 đến 7 lần nghĩa là có nguy cơ xơ vữa động mạch, là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Trong 22 bệnh nhân của nhóm PPE có 7 người có chỉ số hs-CRP ≥ 0.1 mg/dl được điều trị bằng PPE đã giảm đáng kể nồng độ hs-CRP ở tuần thứ 12 (0.045± 0.027 mg/dl; p<0.05) so với thời điểm ban đầu (0.202 ± 0.078 mg/dl) (biểu đồ2). Trong khi nồng độ hs-CRP không có sự khác nhau cóý nghĩa ở thời điểm ban đầu (0.025 ± 0.013 mg/dl) và thời điểm kết thúc thử nghiệm (0.034 ± 0.027 mg/dl) ở nhóm có hs-CRP < 0.1 mg/dl.
bieu do 2
Biểu đồ 2: Mức độ hs-CRP (high sensitivity C-reactive protein) trước và sau điều trị 12 tuần bằng dịch chiết nhau thai heo (PPE) như một liệu pháp thay thế HRT (n=7). Dữ liệu thể hiện dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. *, p
Liệu pháp bổ sung bằng canxi hay PPE đều có sự dung nạp thuốc tốt, và không có trường hợp nào bỏ thử nghiệm do nguyên nhân của tác dụng phụ. Không có phụ nữ nào xuất hiện rối loạn kinh nguyệt được ghi lại từng ngày trong suốt quá trình thử nghiệm. Cũng không có sự khác nhau cóý nghĩa về BMI ở thờiđiểm ban đầu và thời điểm kết thúc thử nghiệm ở nhóm PPE.
Bảng 3: Nguy cơ bị bệnh tim mạch trước và sau điều trị 12 tuần bằng dịch chiết nhau thai heo (PPE). Dữ liệu biểu thị dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (n=22). Mọi kết quả thống kê không có ý nghĩa.

Trướcđiều trị Sau điều trị
Glucose máu (mg/dl) 90.4 ± 11.0 87.68 ± 10.16
Cholesterol toàn phần (mg/dl) 223 ± 34 222 ± 32
Triglycerid (mg/dl) 95.7 ± 45.7 86.7 ± 34.4
Cholesterol HDL (mg/dl) 76.5 ± 14.1 73.8 ± 13.2
Hs-CRP (mg/dl) 0.087 ± 0.092 0.037 ± 0.03
Lipoprotien (a) (mg/dl) 20.1 ± 22.8 22.2 ± 23.1
HDL là một loại lipoprotein phân tử cao; hs-CRP là protein phản ứng C

LUẬN BÀN
Đây là báo cáo đầu tiên chứng minh hiệu quả dịch chiết nhau thai heo (PPE) dạng uống trong quá trình điều trị HRT, bị đau khớp đầu gối kéo dài. Sử dụng PPE như môt giải pháp hỗ trợ điều trị HRT trong 12 tuần cải thiện đáng kể chỉ số mức độ đau VAS trên bệnh nhân đau khớp kháng HRT.Điều đó chứng minh rằng bổ sung thực phẩm chức năng dạng uống PPE là một lựa chọn hiệu quả đối với trường hợp kháng HRT, đau khớp gối trường kỳ.
Theo truyền thống, dịch chiết nhau thai người tiêm dưới da hoặc tiêm bắp đã được dùng điều trị các bệnh gan mãn tính, bệnh vảy nến, viêm khớp dạng thấp, đồng thời bổ sung rất nhiều chất thiết yếu cho cuộc sống như: khoáng chất,  các loại vitamin, các amino acid, protein…Ngày nay, càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tác dụng của dịch chiết nhau thai người trên ứng dụng lâm sàng và phân tích cơ chế.  Tiêm dịch chiết nhau thai người làm giảm triệu chứng viêm khớp ở mô hình chuột thử nghiệmđãđược báo cáo. Với bệnh nhân mắc OA (viêm xương khớp) cấp tínhđược tiêm dịch chiết nhau thai người vào trong khớpđã có kết quả tốt, điều này được giải thích là do làm giảm sản xuất prostaglandin E2, do ức chế hoạt động của cả cyclooxygenase-1 và cyclooxygensae-2.
Hơn thế nữa có rất nhiều báo cáo chứng minh rằng dịch chiết nhau thai người có tác dụng chống viêm. Điều đó cũng cho thấy, tác dụng giảm đau của PPE trên bệnh nhân đau đầu gối thực hiện trong thử nghiệm này cũng có thể giải thích một phần là do tác dụng chống viêm.
Nhiều người biết đến dịch chiết nhau thai ngườiđược sử dụng như một liệu pháp  làm lành vết thương truyền thống, cũng nhưhiệu quả đối với những vết thương do bỏng, sốt sau phẫu thuật và chữa lành vết thương mạn tính.  Báo cáo gầnđây chỉ ra rằng dịch chiết nhau thai người làm giảm sản xuất nitric oxide, một loại gốc tự do cóđời sống ngắn, đóng vai trò quan trọng trong việc chữa lành vết thương như một chất trung gian sửa chữa mô. Tác dụng dịch chiết nhau thai người thúc đẩy hệ thống thần kinh hồi phục cũngđược báo cáo. Gầnđây, chúng tôi thấy rằng phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng kết hợp vớiức chế thần kinh mạn tính gây ra suy giảm vùng kíức sợ hãi và làm giảm tế bào thần kinh vùng đồi thị khu vực CA3 ở chuộtcái.Đồng thời suy giảm trí nhớ và giảm sút tế bào thần kinh vùng đồi thịở chuột cái có giảm bớt khi đượcuống PPE. Hơn nữa, tác dụng bảo vệ của dịch chiết nhau thai người trên sụn khớp bị thoái hóađược báo cáo trong thử nghiệm OA, điều đó chứng tỏ rằng dịch chiết nhau thai người có thể giảm trình trạng thoái hóa sụn khớp do ức chế giải phóng gelatinases bao gồm muối kim loại loproteinase-2 và metalloproteinase-9. Từ những kết quả trên chúng tôi đề nghị rằng cơ chế chữa bệnh của PPE trong giảmđau đầu gối là có cơ sở, một phần do tác dụng hồi phục, làm trẻ hóa của PPE. Mộtđiều đáng quan tâm nữa là tác dụng cải thiện mức độđau đầu gối tiếp diễntới 4 tuần sau khi ngừngsử dụng thuốcở nhóm PPE, suy ra từ những kết quả nêu trên có thể lý giải rằng tác động của PPE  đã có hiệu quả giúp giảm đau và hồi phục. Mặc dù chúng tôi chưa đo mật độ xương (bone mineral density – BMD) trong thử nghiệm này, cơ chế giảm đau đầu gối của PPE không hề liên quan đến việc PPE làm thay đổi BMD trung bình vì PPE không có tác dụng trên BMD của chuột cái cắt bỏ buồng trứng.
Dịch chiết nhau thai rất giàu hoạt chất sinh học như proteins, peptides, glycosaminoglycans, amino acid, RNA và DNA và đều là những thành phần góp phần phục hồi các vùng bị tổn thương. Được biết hiện nay, tất cả các hoạt chất sinh học này đều bổ sung dưới dạng uống chứ không cóđường tiêm. Điều đó không đúng chút nào khi cho rằng các chất có kích thước phân tử lớn dạng protein nhưhóc môn, enzyme, yếu tố tăng trưởng, cytokines dạng uống sẽ bị hệ thống tiêu hóa tác động và không đưa được vào hệ tuần hoàn. Chúng tôi phân tách các hoạt chất sinh học có thể thành phân tử có kích thước bé như dipeptid sử dụng dưới dạng uống cho thấythuốc vẫn vào được hệ tuần hoàn mà không bị tiêu hóa, mặc dù các loại hợp chất trong dịch chiết nhau thai hoàn toàn chưa xác định rõ hết. Cũng có thể các proteins có kích thước lớn sau khi vào hệ tiêu hóa được phân cắt thành các chất sinh học có kích thước nhỏ hơn. Vì PPE không có tác dụng trên BMD và cân nặng của tử cung chuột cái cắt bỏ buồng trứng và trong 3 tháng điều trị bằng PPE không thay đổi nồng độ hócmôn estrogen ở phụ nữ tiền mãn kinh, nên estrogen không liên quan đến tác dụng bổ sung hoạt chất sinh học của PPE.
Gần đây PPE được phát triển thành thực phẩm chức năng dạng viên uống mong đạt hiệu quả như với dịch chiết nhau thai người vì việc sử dụng dịch chiết nhau thai người bị hạn chế ở dạng tiêm. Tuy nhiên, ít người biết tới tác dụng hữu ích của PPE trong hỗ trợ điều trị hết sức đa dạng cũng như hiệu quả phụ đối với cải thiện công thức máu, quá trình trao đổi chất, đặc biệt liên quan đến những nhân tố gây hại cho bệnh tim mạch. Gần đây, đã có báo cáo chứng minh rằng dịch chiết nhau thai người tiêm dưới da không gây bất kỳ nguy hiểm nào trên tim mạch trong suốt thử nghiệm lâm sàng. Ngày nay, liệu trình điều trị thay thế estrogen ở phụ nữ tiền mãn kinh là yếu tố chính ảnh hưởng đến phản ứng protein C (CRP).Khi uốngestrogen (không dùng cách dán), CRP tăng trước khi chuyển hóa qua gan lần đầu.Ở thử nghiệm này, yếu tố nguy hiểm trên tim mạch như glucose máu tăng, cholesterol toàn phần, triglycerids, cholesterol HDL, hs-CRP và lipoprotein (a) không thay đổi trong 12 tuần điều trị bằng PPE. Đó là thông tin rất quan trọng vì PPE thường được sử dụng bởi những phụ nữ ở độ tuổi trung niên, độ tuổi có nguy cơ tim mạch gia tăng. Sự thay đổi chỉ số hs-CRP trong thử nghiệm này không có ý nghĩa, nhưng rất thú vị là chỉ số hs-CRP ở nhóm có hs-CRP cao hơn 0.1 mg/dl đã giảm xuống đáng kể khi so sánh với thời điểm ban đầu, chứng tỏ rằng PPE có thể làm giảm nồngđộ hs-CRP. Tương tự như vậy  báo cáo chỉ ra dịch chiết nhau thai người tiêm dưới da, tuy ở số lượng phụ nữ trong nhóm có hs-CRP cao hơn 0.1 mg/dl là rất nhỏ nhưng nghiên cứu là cần thiết để khẳngđịnh tác dụng của dịch chiết nhau thai.
Cuối cùng, chúng tôi giải quyết một số hạn chế của nghiên cứu.Thứ nhất, nghiên cứu này không phải là thử nghiệm bóc nhãn, và kiểm soát nhóm đối chứng giả dược, và cũng không được phân tích bằng phân tích hướng điều trị.Thứ hai, số lượng mẫu còn nhỏ và khoảng nghiên cứu ngắn. Vì vậy còn hạn chế để khẳng định độ an toàn khi điều trị bằng PPE, đặc biệt nguy cơ tim mạch phát sinh. Thứ ba, kết quả không áp dụng được trên tất cả đối tượng viêm xương khớp gối OA vì hầu hết bệnh nhân bị đau khớp gối đã không được chẩn đoán là OA bằng cách kiểm tra X quang.

KẾT LUẬN:
Đây là báo cáo đầu tiên chứng minh hiệu quả của dịch chiết nhau thai heo dạng viên uống hỗ trợ điều trị bằng HRT chữa đau gối mà không hề xuất hiện nguy cơ trên tim mạch, chứng tỏ rằng bổ sung PPE dạng uống là một lựa chọn khác bổ sung liệu pháp HRT trên bệnh nhân đau khớp kéo dài, kháng HRT.

GHI NHẬN:
Các tác giả gửi lởi cảm ơn chân thành đến Ông Taiichi Kaku (Japan Bio Products Co., Ltd.) vìđã cung cấp dịch chiết nhau thai heo (JBP porcine 100).
Mâu thuẫn lợi ích: Bài báo cáo của các tác giả không có mâu thuẫn lợi ích. Mỗi một tác giả đều chịu trách nhiệm cho nội dung các báo cáo của mình.
Nguồn kinh phí: Hoạt động nghiên cứu được hỗ trợ một phần và cấp kinh phí bởi NPO Science Research Center for Alternative Medicine, Kanazawa, Ishikawa, Japan.

1 nhận xét: